(Tindautruongdanchu)-Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo đến nay đã giành được những thắng lợi to lớn, rất quan trọng, đã và
đang tạo ra thế và lực đưa nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Thắng lợi của công cuộc đổi mới là một trong những thắng lợi vĩ
đại của cách mạng Việt Nam, khẳng định bản lĩnh chính trị, trí tuệ của Đảng ta.
Nâng cao khả năng đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch cho học viên ở nhà trường quân đội
Ngay từ cương lĩnh đầu tiên Đảng ta
đã xác định rõ con đường phát triển của cách mạng Việt Nam: sau khi hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Suốt hơn 80 năm qua, Đảng ta, nhân dân ta đã kiên định con
đường đó. Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng và sáng suốt của
Đảng, Bác Hồ, nhân dân ta. Đó chính là sự lựa chọn của trí tuệ, bản lĩnh chính
trị sắc bén và khoa học.
Từ cuối những
năm 70 của thế kỷ XX, đất nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo
dài nhiều năm. Do “những sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách
lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”[1].
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy là “bệnh chủ quan, duy ý
chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ
quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng”[2].
Đó là tư tưởng vừa “tả” khuynh, vừa “hữu” khuynh. Những sai lầm và khuyết điểm
trong lãnh đạo kinh tế, xã hội, “bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động
tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân”[3].
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, bằng trí tuệ, bản lĩnh
chính trị của mình, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã công bố
đường lối đổi mới toàn diện đất nước vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”,
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra những ưu điểm, nghiêm khắc đánh giá đúng
khuyết điểm, sai lầm trong mười năm cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội
đã khẳng
định: Đổi mới là tất yếu khách quan, là
yêu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng nước ta. Song đổi mới không có nghĩa là
phủ định sạch trơn mà phải biết kế thừa, phát triển những yếu tố tích cực. Đổi mới xuất phát từ thực tiễn, nhu cầu xã hội Việt Nam,
không rập khuôn bất cứ mô hình có sẵn nào trên thế giới. Đảng
ta đã sáng suốt, kịp thời phát hiện nhu cầu đổi mới được hình thành, phát
triển, trở thành xu hướng rõ rệt từ cơ sở qua các hiện tượng “khoán chui”, “phá
rào” ở Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Nghệ An, Long An... Từ đó, Đảng kịp thời tổng kết
với tư duy sáng tạo đã hình thành đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng
ta, nhân dân ta cương quyết sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm đã mắc phải,
đồng thời từng bước hình thành nên tư duy mới, quan niệm mới về chủ nghĩa xã
hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Đó phải là quá trình
diễn ra đồng bộ, toàn diện và triệt để trên các lĩnh vực nhưng có hình thức,
bước đi, cách làm phù hợp: trong giai đoạn đầu tập trung đổi mới kinh tế, từng
bước đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện, tiền đề
cần thiết để giữ vững sự ổn định về chính trị; tiếp đó đồng thời với đổi mới
kinh tế là từng bước đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới trên đất
nước ta từng bước tiến lên vững chắc. Đó chính là sự nhạy bén trong lựa chọn
hình thức, bước đi, xác định khâu then chốt là giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng trong quá trình đổi mới.
Như vậy, ngay từ đầu, công cuộc đổi mới trên đất nước ta đã là sản phẩm của trí
tuệ, bản lĩnh chính trị của toàn Đảng, toàn dân, góp phần làm giàu thêm trí
tuệ, bản lĩnh chính trị, tính khoa học của Đảng.
33 năm tiến
hành đổi mới trên đất nước ta cũng là 33 năm Đảng ta, nhân dân ta luôn phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Có những khó khăn tưởng chừng không thể vượt
qua. Đó là vào những năm 1986 - 1988, khi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội lên
đến đỉnh cao, giá cả tăng lên 393,8%, lạm phát đạt mức kỷ lục 774,4%, đời sống
nhân dân giảm sút; nhiều xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công
nghiệp đình đốn, thua lỗ, sản xuất cầm chứng, thậm chí nhiều xí nghiệp phải
đóng cửa; hàng chục vạn công nhân mất việc làm; hàng vạn giáo viên phải bỏ
nghề… Trong khi đó, chiều hướng cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và
Liên Xô ngày càng xấu đi. Do phạm phải hết sai lầm này đến sai lầm khác trong
quá trình cải tổ nhất là chủ trương chấp nhận đa nguyên về chính trị và chế độ
đa đảng đối lập mà các nước đó đã lún sâu vào cuộc khủng hoảng toàn diện và
đứng trước sự sụp đổ. Các thế lực thù địch trong và người nước ra sức lợi dụng
tình hình để xuyên tạc, kích động, chống phá chủ nghĩa xã hội (CNXH), chống phá
công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo... Thực tế đó đã làm nảy
sinh nhiều luồng tư tưởng khác nhau: một số người thiếu tin tưởng vào đổi mới
đòi quay về với thời kỳ trước, nếu không không muốn mất tất cả; một số người
lại không bằng lòng với tốc độ, bước đi như vừa qua và muốn đổi mới nhanh hơn,
mạnh hơn; một số khác muốn xét lại con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã
lựa chọn, muốn nhân danh đổi mới để đưa đất nước đi theo con đường khác... Trong hoàn cảnh ấy, nếu thiếu trí tuệ,
bản lĩnh chính trị, tính khoa học hoặc hoang mang, dao động đều đưa cuộc khủng
hoảng đến chỗ trầm trọng hơn.
Chính trong
bối cảnh lịch sử phức tạp đó, bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng Cộng sản
Việt Nam lại toả sáng. Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (3/1989), không những
khẳng định dứt khoát phải kiên trì con đường đổi mới vì mục tiêu độc lập dân tộc
và CNXH mà còn bổ sung, phát triển nhiều vấn đề về đường lối như: thực hiện
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, coi đây là nhiệm vụ chiến lược
lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH; đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, hình thành cơ chế thị trường; thống nhất thị trường trong cả nước và
gắn liền với thị trường thế giới... Đặc biệt, Hội nghị đã đề ra những nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo quá trình đổi mới. Các nguyên tắc đó là những vấn đề chiến
lược trong đường lối đổi mới của Đảng, nhằm bảo đảm cho công cuộc đổi mới ở
nước ta phát triển đúng hướng, có hiệu quả.
Thực tế
công cuộc đổi mới đã chứng minh những giá trị đích thực của các nguyên tắc đổi
mới do Hội nghị Trung ương 6 khoá VI xác định. Nếu như lúc đó bản lĩnh chính
trị của Đảng không vững vàng, không đủ trí tuệ để kịp thời phát hiện và xử lý
những diễn biến, tác động xấu của tình hình, không nhạy bén đề ra các nguyên
tắc đổi mới, chắc chắn chúng ta không thể giành được những thành tựu to lớn
trong quá trình đổi mới những năm vừa qua.
Bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong hoạch định đường lối đổi mới còn được thể hiện nổi bật ở việc thiết kế
một mô hình về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây là vấn đề được
tranh luận rất sôi nổi cả trong Đảng và ngoài xã hội. Trong khi CNXH hiện thực
thế giới đang lâm vào tình trạng khủng hoảng cả về lý luận và thực tiễn. Qua
nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình, Đại hội VII của Đảng (6/1991) kết
luận: “Quả là đang có những hạn chế nhất định về lý luận và thực tiễn khi chúng
ta bắt tay xây dựng Cương lĩnh. Nhưng đó không phải là trở ngại không thể vượt
qua. CNXH đã có lịch sử hơn 70 năm, có thành công và có thất bại, đó là nguồn
kinh nghiệm vô giá. Lại có cả kinh nghiệm đổi mới, cải tổ, cải cách những năm
qua gợi mở cho thấy nhiều vấn đề quan trọng, từ mặt thành tựu và cả từ những
vấp váp. Đó là những kết luận cần thiết dưới sự chỉ dẫn của phương pháp luận
Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo"[4].
Với tinh
thần đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) đã nêu lên quan niệm mới về CNXH với 6 đặc trưng và 7 phương hướng -
những nhiệm vụ lớn phải giải quyết trong thời kỳ quá độ, là nội dung của con
đường đi lên CNXH ở nước ta. Sau 20 năm thực hiện, trên cơ sở những quan điểm,
tư tưởng, định hướng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991; bám sát thực tiễn của đất
nước và thời đại; phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, tạo động lực
mạnh để đưa đất nước đi lên, Dự thảo Cương lĩnh trình Đại hội
XI của Đảng đã bổ sung, phát triển mô hình xã hội chủ nghĩa với 8 đặc trưng, 8
phương hướng. Thông qua đổi mới, con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định đầy đủ hơn. Mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đang từng bước được hiện
thực hoá trong đời sống xã hội, đem lại lòng tin của quần chúng nhân dân với
Đảng, với sự nghiệp cách mạng. Uy tín của Đảng, của Việt Nam ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế.
Sau 33 năm
đổi mới nước ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh
tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất
nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển
có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã
được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,2%/năm. Năm 2010 tổng
sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.200 USD. Trong giai đoạn kinh tế
Mỹ và thế giới lâm vào suy thoái, khủng hoảng
đến nay vẫn chưa hồi phục hoàn toàn thì Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng
trên 5% và là một trong số ít các nước tăng trưởng dương. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt được những
thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính
trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại,
hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả góp phần tạo môi trường
hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước. Việt Nam là một trong những nước có vai
trò như người mở đường đi đến thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở những nước chậm
phát triển trong thời đại hiện nay. Điều đó thể hiện rõ tầm vóc,
bản lĩnh chính trị vững vàng và năng lực trí tuệ, tính khoa học của Đảng ta
trong hoạch định đường lối đổi mới.
Điều có ý nghĩa quan trọng là chúng
ta giành được những thành tựu đó trong bối cảnh lịch sử diễn biến không bình
thường, có những thời điểm đất nước ta bị đặt trong tình thế hiểm nghèo tưởng
chừng khó có thể vượt qua. Sự kỳ diệu và vĩ đại của Đảng là ở chỗ Đảng luôn ý
thức được trách nhiệm của mình trước lịch sử, dũng cảm sửa sai, nêu cao tinh
thần độc lập tự chủ và sáng tạo cả trong hoạch định đường lối và tổ chức thực
hiện. Đương nhiên, độc lập tự chủ không đồng nhất với biệt lập, khép kín; sáng
tạo nhưng vẫn dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
luôn kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, luôn xuất phát từ thực
tiễn, nhạy bén nắm bắt cái mới; đồng thời quan tâm tổng kết kinh nghiệm; từng
bước bổ sung phát triển, hoàn chỉnh đường lối và phương pháp cách mạng trong
từng thời kỳ... Đó chính là bản lĩnh chính trị và trí tụê của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong hoạch định đường lối, nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, Đảng ta cũng xác định và nhận thức đầy đủ những nguy
cơ gây cản trở đến công cuộc đổi mới đất nước. Các nguy cơ đó có quan hệ mật
thiết với nhau, tác động lẫn nhau, chúng ta không xem nhẹ nguy cơ nào.
Lịch sử gần 90
năm ra đời, tồn tại, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã khẳng định bản
lĩnh, trí tuệ của Đảng. Trong điều kiện mới, đòi hỏi Đảng
ta càng phải thể hiện trí tuệ, bản lĩnh chính trị của một Đảng cầm quyền, kịp
thời đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn, quyết đoán, vừa không bỏ lỡ thời
cơ, vận hội, vừa đẩy lùi nguy cơ thách thức; phát huy truyền thống đoàn kết đấu
tranh kiên cường, lao động sáng tạo của nhân dân để đưa cách mạng tiếp tục tiến
lên. Với truyền thống cách mạng và kinh nghiệm của mình, Đảng cộng sản Việt Nam
nhất định sẽ chèo lái con thuyền cách mạng tới bến bờ hạnh phúc.
TS Nguyễn Thái