Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, tháng 1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp quán triệt và quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Căn cứ vào đặc điểm địa hình và thế bố trí của địch, Bộ tư lệnh chiến dịch xác định Buôn Ma Thuột (nam Tây Nguyên) là trận then chốt đầu tiên của chiến dịch.
Trận đánh Buôn Ma Thuột được ta chuẩn bị chu đáo, diễn ra từ ngày 10 đến 11-3-1975 và giành thắng lợi to lớn. Trận đánh Buôn Ma Thuột thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật đánh trận then chốt quyết định mở màn chiến dịch của quân đội ta.
Xét trên bình diện cả về chiến lược và chiến dịch, ta chọn thị xã Buôn Ma Thuột là mục tiêu chủ yếu để tiến hành trận then chốt quyết định mở màn chiến dịch là hoàn toàn chính xác, bởi đây là vị trí hiểm yếu nhưng địch lại sở hở. Nhìn tổng thể Tây Nguyên, địch tập trung lực lượng mạnh phòng thủ ở Kon Tum, Pleiku, do chúng xác định ta mở chiến dịch ở hướng này. Nếu ta đánh vào các vị trí này, việc chuẩn bị tác chiến có thuận lợi, nhưng phải hai lần đánh vào nơi địch mạnh ở Kon Tum, sau đó Pleiku thì mới có thể phát triển thế tiến công chiến dịch. Ngược lại, chọn Buôn Ma Thuột, tuy ta gặp khó khăn nhất định về nắm địch, địa hình, vận chuyển vật chất và cơ động tập kết lực lượng, nhưng lại là nơi địch yếu và sơ hở nhất. Nếu ta chiếm được vị trí này có thể nhanh chóng phát triển tiến công xuống các tỉnh ven biển Khu 5, lên Kon Tum và Pleiku, hoặc vào Đông Nam Bộ, tạo chuyển biến tình thế chiến lược, cắt đôi thế trận phòng ngự trên chiến trường toàn miền của địch, cô lập quân khu 1-quân đoàn 1 và uy hiếp trực tiếp quân khu 3-quân đoàn 3 địch.
Bộ đội Sư đoàn 316 tiến công, đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23-ngụy Sài Gòn trong trận đánh Buôn Ma Thuột ngày 10-3-1975. Ảnh tư liệu
Tổ chức đánh trận Buôn Ma Thuột, ta khéo nghi binh, tạo thế chia cắt để đánh địch. Trên địa bàn quân khu 2-quân đoàn 2, địch tập trung đại bộ phận chủ lực cho Tây Nguyên, biến nơi đây thành tuyến phòng thủ chiến lược thứ nhất, còn các tỉnh ven biển Khu 5 là tuyến phòng thủ chiến lược thứ hai có thể hỗ trợ cho nhau. Tại địa bàn Tây Nguyên, địch lợi dụng địa hình chia cắt để tổ chức phòng ngự ở từng vị trí. Vì thế, để bảo đảm đánh chắc thắng trong trận then chốt mở đầu, Bộ tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm “trói địch ở Buôn Ma Thuột mà đánh”. Theo kế đó, trước hết ta nhử địch về hướng Kon Tum, Pleiku đối phó rồi hãm chúng ở đó, khiến cho địch ở Buôn Ma Thuột sơ hở, tạo thuận lợi cho ta vừa bí mật nghi binh, vừa cơ động lực lượng hình thành thế trận chia cắt, vây hãm rồi tiến công địch. Trong việc lập thế trận đánh trận Buôn Ma Thuột, ta thực hiện tốt việc chia cắt địch cả về chiến lược và chiến dịch. Về chiến lược, ta sử dụng lực lượng từ một trung đoàn đến một sư đoàn (thiếu) đánh cắt đường số 19 và đường số 21, không cho địch ở tuyến ven biển Khu 5 lên chi viện cho Tây Nguyên và ngăn chặn địch ở Tây Nguyên rút chạy bằng đường bộ xuống đồng bằng Khu 5. Về chiến dịch, ta sử dụng một sư đoàn đánh cắt đường số 14 không cho quân địch ở bắc Tây Nguyên chi viện cho nam Tây Nguyên, từng bước cô lập địch ở Buôn Ma Thuột. Thực hiện chia cắt như vậy, ta loại trừ được khả năng địch chi viện bằng đường bộ, chúng chỉ có thể chi viện bằng đường không và mức độ không lớn. Nhờ đó, ta có thể tập trung lực lượng tiến đánh Buôn Ma Thuột.
Trong trận đánh này, do việc nghi binh, tạo thế trận giỏi, buộc địch phải phân tán lực lượng thành hai khối ở bắc và nam Tây Nguyên, nên ta có điều kiện tập trung lực lượng áp đảo địch ở Buôn Ma Thuột. Cụ thể, về bộ binh ta hơn địch 4,5 lần, pháo binh ta gấp 5 lần và xe tăng ta gấp 5,5 lần. Ta còn phát huy hiệu quả sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Sau một số trận đánh tạo thế, tạo thời cơ, nghi binh, đánh lạc hướng địch, 2 giờ ngày 10-3-1975, quân ta nổ súng tiến công vào các vị trí quân địch trong thị xã Buôn Ma Thuột. Bộ đội ta thực hiện tiến công địch trong hành tiến, khống chế hoặc bỏ qua các mục tiêu bên ngoài, đánh thẳng vào trung tâm thị xã; kết hợp giữa đột phá từ bên ngoài vào với thọc sâu và luồn sâu; kết hợp chặt chẽ giữa hỏa lực của pháo binh, cao xạ và xung lực của đặc công, bộ binh, xe tăng, thiết giáp. Bằng cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức tập kích, tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc, bao vây, vu hồi, thọc sâu, luồn sâu, sau 33 giờ chiến đấu quyết liệt, đến 11 giờ ngày 11-3, bộ đội ta làm chủ thị xã, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, thu và phá hủy nhiều vũ khí, quân trang quân dụng của địch.
Chiến thắng Buôn Ma Thuột làm đảo lộn thế trận phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, buộc chúng phải rút bỏ Kon Tum và Pleiku, tạo điều kiện cho ta phát triển tiến công giải phóng toàn bộ Tây Nguyên và một số tỉnh ở duyên hải Trung Bộ, mở ra bước ngoặt quyết định cho quân và dân ta phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP (Quân đội nhân dân)