Đó là câu hỏi dư luận đặt ra sau các vụ án mà bị can đã bỏ trốn, gây khó khăn cho quá trình điều tra, phải truy nã và tổ chức truy bắt...
Sự vụ được quan tâm nhất hiện nay là Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã ra quyết định truy nã bà Hồ Thị Kim Thoa - cựu thứ trưởng Bộ Công thương - do có hành vi sai phạm trong thời gian dài.
Bà Hồ Thị Kim Thoa - cựu thứ trưởng Bộ Công thương - đã bỏ trốn, đang bị truy nã - Ảnh: Q.Đ
Trước khi bị truy nã, bà Thoa từng bị kỷ luật về mặt Đảng và chính quyền. Các vi phạm đã được nắm rõ, tuy nhiên khi cơ quan chức năng khởi tố hành vi vi phạm quy định về quản lý tài sản nhà nước gây thất thoát, bà Thoa đã bỏ trốn và Cơ quan CSĐT Bộ Công an ra quyết định truy nã.
Ngăn chặn cách nào?
Đây không phải là chuyện hi hữu. Cuối năm 2019, Cơ quan CSĐT Bộ Công an cũng ra quyết định truy nã bị can Đào Thị Hương Lan - cựu giám đốc Sở Tài chính TP.HCM - liên quan đến sai phạm cho Công ty Diệp Bạch Dương hoán đổi tài sản nhà nước trái quy định.
Hay trước đó vào năm 2018, Bộ Công an đã ra lệnh khởi tố bị can và phát lệnh truy nã quốc tế đối với Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ "nhôm"). Hoặc liên quan đến sai phạm tại Tổng công ty cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC), Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã ra quyết định truy nã toàn quốc và truy nã quốc tế Trịnh Xuân Thanh.
Vấn đề mà nhiều người đặt ra là vì sao cơ quan chức năng không có biện pháp ngăn chặn kịp thời trước khi các bị can này bỏ trốn?
Theo một cán bộ Cục Xuất nhập cảnh - Bộ Công an, công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh nếu thuộc 1 trong 7 trường hợp được quy định tại điều 21 nghị định 136/2007, trong đó người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm, đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự... thì chưa được xuất cảnh.
Trong trường hợp này, cơ quan quản lý xuất nhập cảnh chỉ có thể không cho một người xuất cảnh theo quyết định của các cơ quan có thẩm quyền như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án...
Tuy vậy, theo luật sư Nguyễn Văn Hậu (Đoàn luật sư TP.HCM), pháp luật về xuất nhập cảnh quy định không chỉ có những người đang là bị can, bị cáo không được xuất cảnh, mà những người có liên quan đến công tác điều tra tội phạm cũng không được xuất cảnh.
Do đó, khi nhận thấy những người này có liên quan đến vụ án (có thể qua các tài liệu, hồ sơ trong vụ án) thì cơ quan có thẩm quyền có thể không cho người này xuất cảnh đến khi làm rõ các vấn đề liên quan.
Pháp luật còn nhiều "kẽ hở"
Còn TS Cao Vũ Minh (Trường ĐH Luật TP.HCM) cho rằng đây là một vấn đề còn vướng mắc, bất cập trên thực tế. Bởi quyền tự do đi lại, quyền ra nước ngoài là quyền hiến định của công dân được quy định trong Hiến pháp và chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Do đó, việc không cho xuất, nhập cảnh chỉ được áp dụng trong một số trường hợp cụ thể, quy định tại nghị định 136/2007. Tại thời điểm xuất cảnh mà người này chưa phải là bị can, bị cáo... thì không thể cấm họ xuất cảnh.
"Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận thực tế rằng nhiều trường hợp bị can, bị cáo đã trốn trước khi bị khởi tố. Liệu những người này đã đoán biết được số phận chính trị của họ trước sau gì cũng bị khởi tố nên đã xuất cảnh ra nước ngoài? Giống như trong dân sự, biết được tài sản này sớm hay muộn cũng sẽ bị kê biên nên họ tẩu tán trước?" - ông Minh nêu.
Ông Minh dẫn chứng trên thực tế nhiều người nợ thuế 500.000 đồng cũng có thể không được xuất cảnh. Trong khi đó, một số cán bộ, cựu cán bộ đã bị xử lý kỷ luật về mặt Đảng hoặc bị kỷ luật về mặt chính quyền, gánh trên vai trách nhiệm công vụ nặng nề vẫn được xuất cảnh. Và việc cho xuất cảnh có thể dẫn tới những trường hợp như Trịnh Xuân Thanh.
Từ đó, ông Minh đề xuất cần có quy định nếu cán bộ, công chức bị xử lý kỷ luật về mặt chính quyền thì không được xuất cảnh. Bên cạnh đó, những người có chức vụ thường là đảng viên, khi kỷ luật về mặt Đảng, cơ quan chức năng phải nhanh chóng tìm hiểu nguyên nhân và kết hợp việc xử lý kỷ luật người này về mặt chính quyền.
Đồng thời quy định trong thời gian xử lý kỷ luật về mặt chính quyền, có thể dẫn tới truy cứu trách nhiệm hình sự thì không cho xuất cảnh.
Dẫn độ bị can, bị cáo thế nào?
Theo luật sư Nguyễn Văn Hậu, Luật tương trợ tư pháp năm 2007 ghi nhận các quy định dẫn độ tội phạm được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Đến nay đã có 27 nước ký hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam.
Dẫn độ tội phạm là hoạt động hợp tác giữa các quốc gia trên cơ sở nguyên tắc điều ước quốc tế đã ký hoặc tập quán quốc tế.
Theo đó, quốc gia được yêu cầu dẫn độ sẽ trao trả cá nhân đang hiện diện trên lãnh thổ nước mình cho quốc gia yêu cầu để quốc gia này xét xử, hoặc thi hành bản án liên quan đến cá nhân đã thực hiện hành vi phạm tội trên lãnh thổ quốc gia yêu cầu dẫn độ.
Trường hợp các quốc gia không có điều ước quốc tế về việc dẫn độ, việc dẫn độ tội phạm có thể được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.
Tuyết Mai (Tuổi trẻ)