(Tindautruongdanchu)-Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đã và đang trở thành một căn bệnh “nan y”, nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Bởi vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhận diện, và đề ra các giải pháp khắc phục vừa mang tính cấp bách, lâu dài vừa mang tính sống còn đối với Đảng, chế độ ta. Một trong những giải pháp hiểu hiệu nhất, đó là bằng ý chí, quyết tâm và tinh thần trách nhiệm cao của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.
>>Thành công của 'Ngày hội non sông' khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
>>Đảng là trí tuệ, niềm tin và sức mạnh
>>Củng cố niềm tin cho nhân dân về con đường Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn
1. Nhận diện sự suy thoái về chính trị tư
tưởng, đạo đức, lối sống
Suy thoái là
sự yếu kém, hư hỏng, làm mất dần đi cái tốt, cái tiến bộ, đồng thời làm gia tăng
dần cái xấu, cái lạc hậu, từ đó dẫn đến sự thoái hóa và biến chất của sự vật,
hiện tượng, quá trình hay chính bản thân con người và tổ chức xã hội của con
người. Căn bệnh suy thoái thường đi liền với việc “biến chất” và được gọi là
“Bệnh suy thoái, biến chất”.
Trong xã hội, sự suy thoái biến chất được hiểu là sự giảm sút ý chí
chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động về chính trị, sa sút phẩm chất đạo đức,
xuống cấp về lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên, tất yếu sẽ làm hư hỏng,
làm biến chất cán bộ, đảng viên và làm hỏng mọi việc của cá nhân và tổ chức. Hiện
tượng này, vì thế khác với những băn khoăn, lo lắng, bức xúc trước các hiện
tượng tiêu cực trong xã hội; khác biệt với vi phạm một số khuyết điểm, chấp
hành không nghiêm một số quy định của Hiến pháp, pháp luật của đội ngũ cán bộ,
đảng viên.
Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Trong thế giới cái gì cũng biến hóa, tư tưởng
con người cũng biến hoá. Có cái thì biến hóa tiến bộ lên, tức là phát triển; có
cái thì biến hóa lạc hậu đi, tức là suy thoái”[1].
Vì vậy, trong qúa trình lãnh đạo cách mạng, Người mong rằng “bao nhiêu những
cái xấu xa, thối nát, bất công, áp bức của chế độ cũ, của các hội đồng kỳ mục
trước sẽ không thể tồn tại trong các ủy ban nhân dân bây giờ”[2].
Song, thực tế, khi chính quyền về tay nhân dân, một số “căn bệnh” của quan lại
phong kiến vẫn nhiễm vào đầu óc không ít cán bộ, đảng viên và trở thành “khuyết
điểm to”. Do “khuynh hướng chật hẹp và bao biện”, “lạm dụng hình phạt”, “hủ
hóa”, “kéo bè kéo cánh”, “kiêu ngạo”... Những khuyết điểm đó tiếp tục được
Người chỉ rõ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Với bút danh X.Y.Z, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những khuyết điểm phát triển thành “căn bệnh rất nguy
hiểm” mà cán bộ, đảng viên mắc phải, đó là: “Khuyết điểm về tư tưởng, tức là
bệnh chủ quan. Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng và ngoài Đảng, tức là bệnh
hẹp hòi. Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa”[3].
“Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của
kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong ta đáng sợ hơn,
vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch
đó, phải sửa chữa hết những chứng bệnh đó”[4].
Trong tác
phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Người tiếp tục
cảnh báo: “Còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn rất
kém. Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô,
hủ hóa, lãng phí, xa hoa… tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự cao
tự đại, coi thường tập thể, xem kinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, xa rời
quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh, mất đoàn kết, thiếu
tính tổ chức, thiếu tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành
đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của
cách mạng, của nhân dân”[5].
Từ nhận diện
của Hồ Chí Minh về suy thoái biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá
trình hoạt động lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã có những cảnh báo về căn bệnh “suy
thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên”. Tại Đại hội VI năm 1986, Đảng
ta đã cảnh báo: “Trong xã hội ta đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối sống:
lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của mình, có ý
thức tôn trọng và bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của tập thể và của đất nước
với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền... Đã có
lúc, có nơi, một đảng viên thụ động, bàng quan, bất lực trước sự lan tràn của
những tin đồn nhảm, những dư luận ác ý, tê liệt trước sự tiến công của địch về
tư tưởng”[6].
Đến Hội nghị
Trung ương 3 (khóa VII), Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Trong Đảng có một
bộ phận giảm sút về ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng
tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại, muốn đưa
đất nước đi vào con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít
cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hóa,
hư hỏng. Tệ nạn tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, ăn chơi, phung phí tài sản của
nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài”[7].
Hội nghị
Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng tiếp tục đánh giá vấn đề suy thoái tư
tưởng chính trị: “Trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: Sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán
bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng”[8].
Các kỳ Đại
hội IX, X, XI của Đảng, Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định
tình trạng suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên là nghiêm
trọng. Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa
được đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn; một số rất ít cán
bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng, lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc
đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước”[9].
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra 27
biểu hiện suy thoái thuộc 3 nhóm tư tưởng - chính trị, đạo đức - lối sống, và
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội
bộ10.
Hiện nay, sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống biểu hiện tính chất, mức độ khác nhau, diễn ra ở các đối
tượng khác nhau, từ đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, đến đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả cán bộ cao cấp. Vấn đề đặt ra
là cần nhận diện đúng sự suy thoái đang diễn ra ở những đối tượng nào để có
giải pháp ngăn chặn thích hợp. Đại hội XIII chỉ rõ: Một bộ phận cán bộ, đảng
viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”[10].
Sự suy thoái
của nhóm cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý có chức, có quyền, có
nguy hại lớn, vì sự liên quan lớn hơn đến quyền lực chính trị, quyền lực kinh
tế, quyền lực xã hội của họ. Hành vi của nhóm người này là tự cho mình đứng
ngoài sự quản lý, giám sát của tổ chức, coi thường kỷ luật, nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng, cũng như quy định của cơ quan, đơn vị; không thực hiện đúng các
nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, có tư tưởng bè phái, cục bộ, mất đoàn kết;
coi thường nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. “Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì
cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người”
mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó
khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa
vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc
đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu,
mệnh lệnh”[11].
Sự phê phán của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, mang tính
thời sự cao và có ý nghĩa giáo dục đạo đức, lối sống sâu sắc cho cán bộ, đảng
viên và Nhân dân ta, đặc biệt trong thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay,
đồng thời là cơ sở để Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) chỉ rõ: Trong
9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và, lần đầu tiên Đảng ta chỉ rõ “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực
dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập
thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình”[12].
Xuất phát từ động cơ, lợi ích kinh tế và chính trị, có một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên hiện nay kể cả cán bộ cao cấp đang tự biến mình thành một
“diễn viên có hạng”. Họ không trung thực với chính bản thân mình, vứt bỏ danh
dự, phẩm chát, nhân cách của bản thân. Những lệch lạc về đạo đức, lối sống
trong xã hội đã và đang diễn ra trước hết và nguy hiểm hơn ở những kẻ có chức
có quyền, những kẻ mang danh “đầy tớ của Nhân dân” nhưng đã thoái hóa, biến
chất. Từ đó, dẫn tới độc đoán, chuyên quyền, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng,
coi thường tập thể, trở thành “quan cách mạng”. Khi cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá
nhân, đồng nghĩa với việc họ làm biến chất, suy thoái Đảng. Nguy hiểm hơn, trong
số đó, có người mất phương hướng chính trị, quay lại nói xấu Đảng, chống phá
chế độ. Bài học nhãn tiền đau đớn của Liên Xô và các nước Đông Âu đã chứng minh
điều đó. Cho nên, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là cuộc đấu tranh nội
tại giữa cái “thiện” và cái “ác”; giữa cái “đúng” và cái “sai”; giữa cái “tiến
bộ” và cái “thoái bộ”.
Sự suy thoái
của bộ phận đảng viên không giữ chức vụ trong Đảng và chính quyền, là những
đảng viên chưa hoặc không được giao các chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, chỉ
chịu trách nhiệm cá nhân khi thực hiện các nhiệm vụ đảng viên. Sự suy thoái về
tư tưởng chính trị của nhóm đối tượng này là thiếu niềm tin vào các cấp, nghi
ngờ vai trò lãnh đạo của Đảng, phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội; không làm tròn nhiệm vụ người đảng viên. Nhiều
người không thấm nhuần tư tưởng và tiêu biểu về phẩm chất: “Đảng viên đi trước,
làng nước theo sau”. Trong công tác, họ không chấp hành nghiêm luật pháp, lợi
dụng hoặc cố ý làm trái chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để làm giàu
bất chính; không biết hoặc không dám đấu tranh, rất hay ngộ nhận và phụ họa
theo những nhận thức, hành động tiêu cực, tư tưởng sai trái, quan điểm lệch
lạc; phát ngôn sai với đường lối, quan điểm của Đảng; không làm chủ được bản
thân, rất dễ bị kích động, thậm chí có người ý thức chính trị kém, bị kẻ địch
lợi dụng lôi kéo.
Nhận diện
đúng căn bệnh “nan y” này, thời gian qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân
và toàn dân đã vào cuộc, cùng “chữa trị” căn bệnh này bằng liều thuốc - ý chí,
quyết tâm và tinh thần trách nhiệm cao, hy vọng từng bước đẩy lùi căn bệnh suy
thoái.
2. Ý chí, quyết tâm phòng, chống sự suy
thoái
Để ngăn chặn
và đấu tranh hiệu quả chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên cần được thực hiện đồng bộ
một số biện pháp cơ bản sau đây:
Một là, tăng cường công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
Giáo dục
chính trị tư tưởng là công việc của mọi cấp, mọi ngành. góp phần bồi đắp lý
tưởng cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, để khi đối mặt với
khó khăn, thử thách; đứng trước những cám dỗ vật chất, tác động từ những tiêu
cực, mặt trái của kinh tế thị trường hay đòn tấn công hiểm độc của các thế lực
thù địch, cán bộ, đảng viên vẫn kiên định, vững vàng, không hoang mang, dao
động, phai nhạt lý tưởng, giảm ý chí chiến đấu.
Nếu mọi cán bộ, đảng viên đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, thì sự “xâm nhập” của các tác nhân làm
nảy sinh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ bị triệt tiêu từ khi có “mầm bệnh”.
Để làm được
điều đó, là tổ chức thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện hiệu quả Nghị quyết trung
ương 4 (Khóa XII); thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, công tác bảo vệ chính
trị nội bộ, công tác quản lý cán bộ, đảng viên; kịp thời phát hiện, ngăn chặn
những biểu hiện suy thoái ngay từ khi mới xuất hiện; tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng.
Chú trọng
đúng mức công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng thành lũy tư tưởng vững
chắc cho mọi cán bộ, đảng viên phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Người đứng
đầu các cấp cần gương mẫu trong rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, phẩm
chất, lối sống. Đồng thời người đứng đầu phải là người đi đầu trong đấu tranh
với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Sự nêu
gương của đội ngũ cán bộ chủ trì sẽ có tác dụng thúc đẩy sự tự giác, thái độ
nghiêm túc của cán bộ, đảng viên, quần chúng phấn đấu, rèn luyện và đấu tranh
với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, mầm mống của “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá”.
Điều đặc biệt quan trọng là bản thân mỗi cán
bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện, nâng cao khả năng “tự bảo vệ”, tăng cường
“sức đề kháng” và “độ miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa
bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù
địch và sự tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường; không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, xem xét đối chiếu mình với tiêu
chuẩn đạo đức cách mạng, từ đó, điều chỉnh hành vi của bản thân, tránh cám dỗ
của lối sống hưởng thụ xa hoa, lãng phí, sách nhiễu, quan liêu, tham nhũng.
Từng bước đẩy lùi cái xấu, làm cho đạo đức cách mạng trong mỗi cá nhân ngày
càng phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề
ra.
Hai là, đề cao trách
nhiệm nêu gương để phòng ngừa, giảm thiểu suy thoái
Đối với cán
bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ cấp cao, trách nhiệm không dừng lại ở bổn
phận “việc phải làm, việc phải gánh vác, việc phải nhận lấy về mình”, mà còn là
một trong những giá trị thuộc về phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức, chiều
sâu văn hóa của người chiến sĩ tiên phong của Đảng. Họ cần khắc cốt ghi tâm câu
nói của Bác Hồ: “Là khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất
kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến
nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm
cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy... là không có
tinh thần trách nhiệm”[13].
Nói đến
“trách nhiệm” thì dễ, nhưng thực hiện đến nơi đến chốn trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên lại phải đòi hỏi mỗi người luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò,
nhiệm vụ của mình, từ đó thường xuyên nêu cao ý thức, bổn phận, nghĩa vụ trong
rèn luyện, công tác, gắn bó hết mình với công việc, tận tụy với chức trách được
phân công, góp công góp sức cùng cán bộ, nhân viên, người lao động trong cơ
quan, đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Phải làm sao để theo ngày
ngày, tháng tháng, mỗi cán bộ, đảng viên càng làm việc càng trôi chảy, hiệu
quả, càng đóng góp nhiều hơn cho tập thể. Vì khi tập thể vững mạnh, trưởng
thành thì bản thân mình cũng tiến bộ.
Để có tinh
thần trách nhiệm tốt, mỗi cán bộ, đảng viên cần có “5 tự”: Phải tự mình chủ
động, tích cực, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ, làm việc có chương trình, kế
hoạch, khoa học và đạt kết quả cao nhất; phải có tính tự trọng cao để làm việc
với tinh thần, thái độ công tâm, khách quan, vì lợi ích chung của cơ quan, đơn
vị, vì danh dự của cá nhân; phải biết tự xử với chính bản thân mình trong mọi
việc, khi mắc phải thiếu sót, khuyết điểm phải tự giác nhận trách nhiệm cá
nhân, xác định rõ nguyên nhân do đâu mà mắc phải để có biện pháp sửa chữa, khắc
phục, phấn đấu vươn lên, không tranh công, đổ lỗi cho khách quan, cho người
khác; phải tự giác tự phê bình, phê bình và không được tự ái để không ngừng
tiến bộ; phải có sự tự tin trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, công việc được
giao.
Một trong
những tiêu chí cơ bản để nhận định, đánh giá cán bộ, đảng viên có hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ hay không, đó là tinh thần trách nhiệm. Các nhiệm kỳ qua,
khi lựa chọn nhân sự vào vị trí lãnh đạo các cấp, Đảng ta luôn nhấn mạnh đến
tiêu chí “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” của người cán bộ, đảng viên.
“Dám chịu trách nhiệm” không chỉ thể hiện tinh thần gan dạ, dũng cảm, tính khí
khảng khái, cương trực của người cán bộ, mà còn nói lên ý thức dám đối mặt với
khó khăn, chấp nhận sự rủi ro khi dấn thân vào việc khó, giải quyết vấn đề khó,
chưa có tiền lệ, song cũng khơi thông được mạch nguồn sáng tạo, cổ vũ cho những
hướng đi mới, cách làm mới mang lại hiệu ứng, hiệu quả khả quan trong tương
lai. “Dám chịu trách nhiệm” hiểu theo nghĩa này chính là khuyến khích những
nhân tố mới để góp phần làm chuyển biến, thay đổi tình hình theo chiều hướng
tích cực. Như vậy, “dám chịu trách nhiệm” ở đây là tinh thần đề cao “trách
nhiệm nhân đôi” và cũng là bản lĩnh vững vàng của cán bộ, đảng viên, nhất là
cán bộ lãnh đạo các cấp.
Mỗi cán bộ,
đảng viên ở cấp chiến lược, phải luôn thấm nhuần “Về trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp” nhấn mạnh: “Mỗi
cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải tích cực học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”;
đồng thời yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên có trách nhiệm nêu gương ở 7 nội
dung cụ thể là: Tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống, tác phong; tự phê bình
và phê bình; quan hệ với nhân dân; trách nhiệm trong công tác; ý thức tổ chức
kỷ luật; đoàn kết nội bộ như Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7 – 6 – 2012 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng khóa XI đã chỉ ra. Đồng thời, tự nghiêm khắc với chính
mình, gương mẫu trong lời nói và hành động cũng là một trong những cách tốt
nhất để đội ngũ cán bộ, đảng viên tự phòng ngừa, giảm thiểu được những biểu
hiện suy thoái.
Ba là, tăng cường phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí và
các tệ nạn xã hội.
Thực hiện
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra” để kịp thời phát hiện
những biểu hiện, hành động, hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, bệnh quan
liêu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân
trong xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân gắn với công tác phòng và
chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tạo sự thống nhất, tự giác,
quyết tâm cao trong hành động. Lấy việc làm cụ thể, hành động cụ thể của mỗi
cán bộ, đảng viên trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, trong phòng và
chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu tại cơ quan, địa phương, đơn vị
và từng địa bàn cơ sở, khu dân cư... làm thước đo đánh giá tư cách, năng lực,
đạo đức và coi đó là một trong những điều kiện để xem xét đánh giá, bổ nhiệm,
khen thưởng.
Cuộc đấu
tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong những năm qua
đã được Ðảng, Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, dựa vào dân và ngày càng
được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Nhiều vụ việc, nhiều đại án kinh tế đã được
triển khai đồng bộ, bài bản, thận trọng, giải quyết triệt để, đạt nhiều kết
quả, được dư luận quan tâm và nhân dân đồng tình, ủng hộ. Trong đó, lực lượng
công an đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp, đóng góp tích cực, quan
trọng vào việc đẩy nhanh tiến độ điều tra, đưa ra truy tố, xét xử các vụ án
nghiêm trọng, phức tạp về ma túy, kinh tế, tham nhũng… góp phần ngăn chặn tình
trạng tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hoạt động phạm tội và vi phạm
pháp luật.
Bốn là, kiên quyết
đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Ðảng
Tổ chức cơ
sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Đảng viên chính là
hạt nhân góp phần xây dựng các tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh. Với 5 triệu
đảng viên – chính là cơ sở, nền tảng xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng
vững mạnh. Song, thời gian qua, không ít đảng viên vì lợi ích cá nhân, mặt trái
của cơ chế thị trường và “viên kẹo bọc đường” của các thế lực thù địch đã bị
thoái hóa, biến chất.
Bên cạnh đó,
một bộ phần không nhỏ đảng viên thiếu gương mẫu, bản lĩnh chính trị không vững
vàng, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất tầm thường, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; có việc
làm hoặc phát ngôn sai nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; một số có biểu hiện dao
động, hoài nghi về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Những khuyết điểm, yếu kém đó
đã ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và
đảng viên; làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, vi phạm tư cách,
tiêu chuẩn đảng viên và quy định những điều đảng viên không được làm; có những
bài viết, phát ngôn trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết,
chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, biểu hiện rõ sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…
Bằng ý chí, quyết tâm, quyết
liệt phòng, chống sự suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của toàn Đảng, toàn quân và toàn quân ta, ngày
10 - 1 - 2020, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật của Đảng năm 2019, triển khai nhiệm vụ năm 2020, Ủy viên Bộ
Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng cho biết, từ năm
2016 đến nay, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã triển khai thực hiện, hoàn
thành khối lượng công việc rất lớn, tăng nhiều so với các năm trước đây, chất
lượng, hiệu quả cũng nâng cao với nhiều vụ việc khó, phức tạp nghiêm trọng. Tới
nay, đã thi hành kỷ luật 1.111 tổ chức Đảng, 18.265 cấp ủy viên các cấp và 54.573
đảng viên. Trong đó, Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ
luật 8 tổ chức Đảng, 45 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra T.Ư thi hành kỷ luật 111
đảng viên. Trong số đảng viên bị kỷ luật, có 92 cán bộ thuộc diện T.Ư quản lý,
gồm: 2 ủy viên Bộ Chính trị, 21 ủy viên và nguyên ủy viên T.Ư Đảng, 38 sĩ
quan trong lực lượng công an, quân đội (cấp tướng là 23 người)[14].
Tổng Bí thư, Chủ Tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã phải thốt lên “Thật đau xót
nhưng không thể không làm, không cách nào khác! Tất cả vì sự nghiệp chung của
Đảng, của đất nước, của nhân dân. Đây là bài học sâu sắc, đắt giá cho tất cả
chúng ta”.
Đứng trước hiện tượng này nhiệm
vụ đặt ra cần giải quyết là : Một là, các
cấp ủy, nhất là cấp ủy cơ sở phải thực hiện nghiêm túc quy định về sinh hoạt
đảng bộ, chi bộ; quản lý chặt chẽ sinh hoạt đảng và chuyển sinh hoạt đảng của
đảng viên. Định kỳ sáu tháng, cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng
tiến hành kiểm tra các chi bộ việc thực hiện quy định về sinh hoạt đảng và quản
lý đảng viên, thông báo kết quả kiểm tra trong toàn đảng bộ; Hai là, kiên quyết khắc phục những biểu
hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, thực dụng, vụ lợi, cá nhân, trung bình chủ
nghĩa trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nắm bắt, giải quyết kịp thời những kiến
nghị chính đáng của đảng viên; bảo vệ những đảng viên trung thực, thẳng thắn
trong đấu tranh chống tiêu cự; Ba là, tiến
hành tổng rà soát đội ngũ đảng viên trong toàn Đảng, làm rõ những đảng viên
không hoàn thành nhiệm vụ; không thực hiện đúng chế độ chuyển sinh hoạt hoặc đã
chuyển sinh hoạt đảng nhưng không nộp hồ sơ cho tổ chức đảng có thẩm quyền; vi
phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước; thiếu gương mẫu, uy tín thấp… Từ đó,
đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn đủ tư cách; khắc phục triệt để tình
trạng dễ dãi, nể nang, né tránh.
Muốn phòng,
chống và khắc phục bệnh suy thoái, cần phải nhận diện đúng, trúng sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên để “kê đơn”, bốc
thuốc nhằm chữa đúng, khỏi bệnh. Với ý chí quyết tâm và tinh thần trách nhiệm
cao, thời gian qua, Đảng ta không chỉ ban hành nhiều nghị quyết, các cuộc vận
động mà còn bằng việc làm cụ thể thiết thực đã từng bước đẩy lùi, ngăn chặn con
“vi rút” suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nói chung, cán
bộ, đảng viên ở vị trí lãnh đạo cấp cao nói riêng. Điều đó đã củng cố lòng tin
của nhân dân đối với chế độ, “ý Đảng hợp với lòng dân” sẽ tạo ra sức mạnh tinh
thần to lớn - nền tảng vững chắc thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội XIII đề
ra.
[1] Hồ Chí Minh toàn
tập, t.5, Nxb CTQG, H.2011, tr.317
[2] Hồ Chí Minh toàn
tập, Sđd, t.4, tr.22.
[3] Hồ Chí Minh toàn
tập, Sđd, t.5, tr.273
[4] Hồ
Chí Minh toàn tập, Sđd, t.5, tr.278-279
[5] Hồ
Chí Minh toàn tập, Sđd, t.15, tr.546
[6] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr.461-462
[7] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.52, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2007, tr.190
[8] ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.24.
[9] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.196, 185
[10] ĐCSVN, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần XIII,NxbCTQG ST, H.2021, tr.92.
[11] Hồ Chí Minh toàn
tập, t.15, Sđd, tr.546-547.
[12] ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 30.
[13] Hồ Chí Minh toàn
tập, Sđd, t.7, tr.248
[14] https://thanhnien.vn/thoi-su/da-ky-luat-92-can-bo-dien-tu-quan-ly-tu-dau-nhiem-ky-xii-1170659.html