Đăng bởi BÁO ĐẤU TRƯỜNG DÂN CHỦ lúc Tuesday, July 27, 2021 , 0 bình luận



Tindautruongdanchu) - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”[1] và “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”[2].
 

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là sự kế thừa truyền thống giữ nước quý báu của dân tộc và là bước phát triển mới trong tư duy bảo vệ Tổ quốc của Đảng - một phương thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

1. Tư tưởng chủ động “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong  truyền thống văn hóa giữ nước của dân tộc Việt Nam

 "Lo giữ nước khi nước còn chưa nguy" - Vua lê Thái Tổ

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy, tư tưởng chủ động “giữ nước từ khi nước chưa nguy” của ông cha ta có nội dung rộng lớn, thể hiện trên nhiều phương diện, cả trong quá trình dựng nước và giữ nước. Tư tưởng đó được biểu hiện trên những nội dung chủ yếu sau:

Một là, tư tưởng chủ động giữ nước làm cho “quốc phú binh cường”.

Thục Phán An Dương Vương vừa động viên trăm họ phát triển cây lúa nước, vừa huy động toàn dân đắp thành Cổ Loa, sửa sang giáo mác, rèn đúc tên đồng để sẵn sàng bảo vệ đất nước; Vua Quang Trung: “Cứ để cho ta mười năm nữa, nước ta giàu, dân ta mạnh, thì ta có sợ gì chúng”… 

Hai là, tư tưởng vua tôi đồng lòng, cả nước chung sức chống thù trong giặc ngoài.

Thực hành tư tưởng “Cố kết trong nội bộ lãnh đạo đất nước”[1]; xây dựng một quân đội “phụ tử chi binh”; xây dựng khối đoàn kết toàn dân đánh giặc: Các triều đại Lý, Trần, Lê thực hành chính sách “ngụ binh ư nông”, “tịch điền”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”.

Ba là, tư tưởng xây dựng quân đội hùng mạnh, “cốt tinh không cốt đông”, thực hành “ngụ nông ư binh” một cách lâu dài.

Đối với Việt Nam, một dân tộc “đất không rộng, người không đông”, luôn ở vào cái thế phải “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh” đã buộc các triều đại phong kiến phải có cách đối phó chủ động, linh hoạt nhất. Đó là xây dựng quân đội theo cách “cốt tinh không cốt đông”, thực hành “ngụ nông ư binh”, “cả nước là lính, toàn dân đánh giặc” một cách lâu dài.

Bốn là, tư tưởng bang giao phòng ngừa.

Bang giao phòng ngừa là một chủ trương chiến lược thường được các triều đại phong kiến nước ta vận dụng rất hiệu quả nhằm chủ động bảo vệ Tổ quốc. Lược sử những sự kiện điển hình cho thấy, tư tưởng và nội dung của bang giao phòng ngừa rất phong phú, sinh động, thể hiện trên những vấn đề: Ngoại giao tại biên, ngăn chặn các âm mưu phản loạn; ngoại giao thăm dò địch; giảng hòa trên thế thắng.

Năm là, tư tưởng tiên phát chế nhân.

Tư tưởng và hành động: “Ngồi chờ giặc không bằng đem quân phá trước thế mạnh của giặc” mà người xưa thường gọi là “Tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược là một trong những tư tưởng và hành động quân sự mang tính chủ động giữ nước rất cao.

Những tư tưởng và hành động chủ động “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong lịch sử dân tộc Việt Nam là một trong những cơ sở hình thành quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng ta.

2. Bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII là một phương thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới



Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”[2] và “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”[3].

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong Nghị quyết Đại hội XIII có sự phát triển toàn diện, sâu sắc, đó là khẳng định bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa một cách chủ động.

Nghị quyết Đại hội XIII chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”; “Phải chuyển mạnh sang việc “chủ động phòng ngừa” là chính; phải “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”[4]; phải “Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống”[5].

So với các Nghị quyết trước đây, trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tinh thần, tư tưởng về chủ động giữ nước được đề cập với tần suất khá lớn, cả trong đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội XII cũng như tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn 2030 và 2045; trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Quan điểm, phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa: Không chỉ xác định trong nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc mà còn được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, các chủ thể, các lực lượng, trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh, đối ngoại.

Nghị quyết  XIII xác định: “Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm”[6]. Điều này thể hiện bảo vệ Đảng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Lực lượng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa: Là toàn dân, của cả hệ thống chính trị và các ngành, chủ thể, lĩnh vực của đời sống xã hội.

Các nhân tố gây ra đột biến tác động đên bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa: Nghị quyết Đại hội XIII không loại trừ “nhân tố bên ngoài”, khi nhấn mạnh “nhất là các nhân tố có thể gây đột biến” bao gồm cả “nhân tố bên trong” và “nhân tố bên ngoài”.

Như vậy, sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình quốc tế có nhiều biến động, khó dự báo; đất nước đã hội nhập quốc tế sâu, rộng, khi đứng trước những vấn đề đó không chỉ có những cơ hội lớn để phát triển, mà còn có những thách thức gay gắt, những “nhân tố bên ngoài” có thể gây đột biến, dẫn đến nguy cơ bùng nổ sung đột, chiến tranh.

Nghị quyết Đại hội XIII xác định giải pháp thực hiện bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa:

Một là, tập trung xây dựng đất nước vững mạnh về mọi mặt, xây dựng yếu tố nội lực bên trong đủ khả năng ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa.

Nghị quyết Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[7].

Hai là, thường xuyên chăm lo xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh đủ mạnh, thế trận quốc phòng và an ninh vững chắc ngay từ thời bình để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Về tiềm lực quốc phòng, Nghị quyết Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”[8]. Điểm mới so với Nghị quyết Đại hội XII ở chỗ: Nghị quyết Đại hội XIII cụ thể hóa phương châm “từng bước hiện đại” bằng chủ trương xây dựng “một số quân binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại” trong giai đoạn 2021 - 2030, phấn đấu từ năm 2030 sẽ “xây dựng quân đội hiện đại”, chứ không còn là “ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”[9].

Đại hội XIII đề ra chủ trương: “xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội”[10].

Về thế trận quốc phòng, Nghị quyết Đại hội XIII yêu cầu tập trung xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; trong đó, coi trọng việc phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”.

Ba là, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, nhằm tăng đối tác, giảm đối tượng, thêm bạn, bớt thù đối với cách mạng Việt Nam.

Nghị quyết Đại hội XIII chủ trương: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương”[11]; “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”[12].

Bốn là, nâng cao năng lực dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh, đối ngoại để tham mưu chính xác cho Đảng, Nhà nước sớm có đối sách chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa.

Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định: “nâng cao năng lực xử lý thông tin, dự báo, tham mưu chiến lược, chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động...”[13].

Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định: “Xây dựng nền ngoại giao hiện đại, trong đó chú trọng đẩy mạnh ngoại giao quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”[14].

Điểm mới về nhiệm vụ của đối ngoại quốc phòng trong Nghị quyết Đại hội XIII là, “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”[15].

Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ quốc phòng với hơn 80 quốc gia và tổ chức quốc tế; có 50 nước đặt tùy viên quân sự tại Việt Nam. Quân đội đã cử cán bộ, sỹ quan tham gia Phái bộ Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại Cộng hòa Trung Phi và Nam Sudan và sắp tới tiếp tục cử thêm sỹ quan thực hiện nhiệm vụ này.  Bên cạnh hợp tác quốc phòng song phương, Việt Nam còn tham gia nhiều hoạt động đối ngoại quốc phòng đa phương của ASEAN và một số diễn đàn đa phương khác, trong đó có Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á, Diễn đàn Hương Sơn...

3. Quán triệt và thực hiện quan điểm bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của đảng

Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân  nhận thức rõ được đối tác và đối tượng, nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đặc biệt là những quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa để tạo sự đồng thuận cao trong xã hội với việc tổ chức thực hiện.

Để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, phải chủ động thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; nâng cao nhận thức về đối tác, đối tượng. Trên cơ sở đó, tạo chuyển biến mạnh mẽ về trách nhiệm và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Hai là, bám sát tình hình, chủ động nghiên cứu nắm chắc tình hình diễn biến của thế giới, khu vực, đặc biệt là những yếu tố tác động đến quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc làm cơ sở cho việc xác định chủ trương, giải pháp để ngăn chặn, xử lý có hiệu quả các tình huống, không để bị động bất ngờ.

Trong nghiên cứu, dự báo chiến lược về quân sự, quốc phòng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối chiến lược và các đối sách linh hoạt, đúng đắn, phù hợp, giải pháp toàn diện, khả thi, chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, xử lý thắng lợi các tình huống quân sự, quốc phòng; giải quyết tốt các quan hệ quốc tế, vấn đề biển, đảo, biên giới,.. không để bị động, bất ngờ về chiến lược.

Ba là, quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; đảm bảo dân chủ, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phòng chống tự diễn biến, tự chuyển hóa; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng quân đội, công an “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, giữ cho “trong ấm, ngoài êm” tạo nền tảng, sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh, với kinh tế, văn hóa xã hội trong từng chiến lược, kế hoạch và ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo; kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại và tăng cường đối ngoại về quốc phòng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; phát huy tốt vai trò của các lực lượng trong việc tiếp tục hoàn thiện các thể chế về quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước về quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, quan tâm đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiến hành thực hiện tốt sơ, tổng kết các hoạt động liên quan đến việc bảo vệ Tổ quốc để làm cơ sở cho việc thực hiện bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc và nâng cao năng lực vận dụng sáng tạo, nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện các nhiệm vụ; vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trên từng lĩnh vực cụ thể, góp phần hiện thực hóa quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta luôn nêu cao tinh thần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, đồng thời khắc phục những hạn chế cả về nhận thức cũng như tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nắm vững cách thức, ngăn ngừa, giải quyết những vấn đề bất chắc, nảy sinh nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

TS. NVT



[1] Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự, Tìm hiểu văn hóa giữ nước Việt Nam, Nxb QĐND, H.2002, tr.128.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.117

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.156

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.156-157

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.159

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.189

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.110

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.157-158

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tập I,  Nxb CTQG, H.2016, tr.149

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.158-159.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.162..

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.110.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQGST, H.2021, tr.152.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.50.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.163



Trích dẫn trong lời nói đầu:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.117

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.156

Tags:

Lưu ý: Khi để lại Nhận xét bạn nên click vào ô "Thông báo cho tôi" ở dưới để nhận phản hồi từ Admin

Học tiếng anh
Floating Image X