(Tindautruongdanchu)-Theo báo điện tử BBC NEW, ngày 25 tháng 6 năm 2021 đã vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền và tự do báo chí. Bài báo với tiêu đề: “EU nói VN còn có 'vi phạm nhân quyền' và tự do báo chí 175/180 thế giới”. Quốc gia 97 triệu dân ở Đông Nam Á vẫn chỉ xếp hạng 175/180 về tự do báo chí, theo Báo cáo của EEAS ra trong tháng 6/2021, tổng kết tình hình nhân dân, dân chủ trên thế giới năm 2020.
>>Lộ rõ chiêu trò kích động từ vụ bất ổn ở Cu Ba
>>Cảnh giác với thủ đoạn lợi dụng biểu tình tại Cuba để kích động chống phá
>>Thực tiễn sinh động về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Họ cho rằng ở Việt
Nam không có quyền tự do báo chí và vi phạm nhân quyền sâu sắc, trong đó: Đặc biệt lo ngại là
mức độ nghiêm trọng của các hạn chế và kết án các trường hợp liên quan đến thực
hiện quyền tự do ngôn luận trên mạng và ngoài xã hội. Người dùng mạng xã hội
ngày càng phải đối mặt với sự kiểm duyệt độc đoán khi chia sẻ những quan điểm mang
tính chỉ trích. Chính phủ ép buộc các công ty truyền thông xã hội quốc tế lớn
gỡ bỏ các tài khoản hoặc nội dung chỉ trích chính phủ, tạo ra một tiền lệ đáng
lo ngại. Một số blogger, nhà báo và những nhà hoạt động vì nhân quyền đã bị
bắt, hoặc bị kết án, nhà nước tiếp tục kiểm soát các phương tiện truyền thông
và hạn chế về quyền tự do ngôn luận cả trên mạng và ngoài đời thực.
Ngày 21-1-2021, Nghị viện Châu Âu
(EP) thông qua nghị quyết về tình hình nhân quyền Việt Nam, tiếp tục lặp lại
chỉ trích Bộ luật Hình sự, Luật An ninh mạng và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, vì
họ cho rằng, những luật này đang giới hạn các quyền tự do căn bản của con
người. Trên một số diễn đàn quốc tế đa
phương và song phương, một số tổ chức, chính phủ thể hiện thái độ thiếu thiện
chí, cố tình hiểu sai khi cho rằng nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước Việt
Nam hiện nay không còn phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký
kết, đòi Việt Nam thay đổi cách tiếp cận theo quan điểm nhân quyền của họ.
Đây là những quan điểm vu khống một cách trắng trợn về tình hình nhân
quyền ở Việt Nam, phủ nhận những thành quả của Việt Nam trong việc đảm bảo vấn
đề nhân quyền và quyền tự do báo chí. Việt Nam là một đất nước XHCN, là Nhà
nước “của dân, do dân và vì dân”. Một nhà nước đã được đánh đổi và xây dựng
bằng máu, mồ hôi, nước mắt... của rất rất nhiều thế hệ con người Việt Nam. Do
đó, người dân Việt Nam hiểu sâu sắc hơn ai hết những giá trị của cuộc sống, giá
trị của “tự do, dân chủ”.
Để bảo đảm cho mọi người Việt Nam được thụ hưởng
đầy đủ quyền con người, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật, trong đó nổi lên là các quyền về chính trị, dân sự. Tính đến
cuối năm 2018, Quốc hội ta đã sửa đổi và ban hành mới hơn 90 văn bản luật,
trong đó có những bộ luật như: Luật Báo chí, 2016 (có hiệu lực từ 01-01-2017);
Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, 2016 (có hiệu lực từ 01-01-2018); Luật Tiếp cận
thông tin, 2016 (có hiệu lực từ 01-7-2018); Nghị định 72/2013 về “Quản
lý sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng” (có hiệu lực từ
01-9-2013); Luật An ninh mạng, 2018 (có hiệu lực từ 01-01-2019), v.v. Tất cả những bộ luật và Nghị định nói trên đều tuân thủ
nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, theo đúng Hiến pháp 2013. Đáng chú ý,
trong nội dung sửa đổi và trong những bộ luật mới đã thể hiện những nhận thức,
quan điểm mới của Nhà nước ta trên lĩnh vực quyền con người. Chẳng hạn, Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016) không chỉ đơn giản hóa các thủ tục cấp phép cho
các hoạt động thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo, mà còn bảo đảm
quyền cho tất cả người có đạo - cho dù họ là công dân Việt Nam hay người nước
ngoài, cho dù họ là người tự do hay đang thi hành án. Mục 5 (Điều 5) quy định:
“Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành
tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng, … bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ
niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”. Điều 8, quy định: “Người nước ngoài cư trú hợp
pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo”, v. v.. Mọi người Việt Nam đều được hưởng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào; công dân - tín
đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”; rất nhiều cơ sở thờ tự, nhà thờ, nhà chùa được xây
mới, xây dựng lại; chức sắc, nhà tu hành, người hoạt động tôn giáo chuyên
nghiệp đã tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu trong đời sống tinh thần và tâm linh
của nhân dân; các tôn giáo có quyền và được Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện mở
trường, cơ sở đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách, tham gia các hoạt động xã hội;
các lễ hội tôn giáo đã được tổ chức long trọng, trang nghiêm; trong các năm
2008, 2014, 2019, Liên hợp quốc đã chọn Việt Nam làm địa điểm và đã tổ chức
thành công Đại lễ Phật đản...
Không ít người sau nhiều năm sống tại Việt Nam
đã đánh giá cao quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Theo ông A.
Sauvageot - cựu đại tá CIA từng tham gia chiến tranh ở Việt Nam đã nói: “Nếu ai
hỏi tôi, tự do tín ngưỡng ở Việt Nam là bao nhiêu, theo tôi là 100%. Một điều
nữa, tự do không tín ngưỡng của Việt Nam cũng là 100%. Cá nhân tôi không theo
một tôn giáo nào, nhưng làm việc ở Việt Nam, tôi không bao giờ bị mang tiếng
xấu vì điều đó. Tôi có nhiều người bạn là người Mỹ và Việt Nam, họ theo Thiên chúa
giáo, Tin lành, Phật giáo”. Một người khác là D. Hutt (D. Hút) - cây bút vốn
thiếu thiện chí với Việt Nam, cũng phải thừa nhận trên BBC: “Trong khủng hoảng
vừa qua do đại dịch virus corona, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hành động có trách
nhiệm, đặt người dân làm mối quan tâm hàng đầu… Phản ứng của Chính phủ Việt Nam
với đại dịch Covid-19 gần giống như những cái mà chính trị thật sự nên làm.
Chính phủ và đảng cầm quyền, cũng như các đại biểu nhân dân, cần làm mọi điều
có thể để bảo vệ công dân của mình. Và người dân, với một chính phủ được tin
tưởng, có thể cảm thấy chính họ đang được bảo vệ”.
Việt Nam tham gia hầu hết các
công ước quốc tế cơ
bản, quan trọng nhất về quyền
con người, như: Công ước về quyền
dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, ký ngày
24-9-1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, ký
ngày 18-12-1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, ký ngày
19-3-1982; Công ước về quyền trẻ em, ký ngày 20-2-1990; Công ước về
quyền của người khuyết tật, ký ngày 22-10-2007… Những
công ước này đều được luật hóa trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việt Nam cũng
tích cực tham gia đối thoại về quyền con người với nhiều quốc gia, như: Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Thụy Sỹ và
Liên minh Châu Âu (EU)... nhằm trao đổi quan điểm, học hỏi kinh nghiệm lẫn
nhau, hướng tới nâng cao hơn sự hưởng thụ quyền của người dân ở mỗi quốc gia.
Về quyền tự do ngôn luận, báo chí và tự do sử
dụng internet, mạng xã hội của người dân đã được bảo đảm không chỉ về tư tưởng,
chính trị, mà cả về cơ sở kỹ thuật (do Nhà nước đầu tư). Ở Việt Nam, Đảng
và Nhà nước ta đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của khoa học, công nghệ, đặc
biệt là internet, mạng điện tử nói chung, mạng xã hội nói riêng, nên việc kết
nối dịch vụ này được tiến hành khá sớm. Năm 1997, Việt Nam kết nối với xa lộ
thông tin của thế giới, đặt nền móng cho internet Việt Nam. Từ đây, người Việt
Nam đã có thể tiếp cận với các nguồn thông tin dựa trên internet, mạng xã hội.
Trong bối của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,
internet, mạng điện tử phát triển mạnh mẽ, bảo vệ chủ quyền Quốc gia trên không
gian mạng là một nhiệm vụ quan trọng, tất yếu. Nhằm bảo đảm quyền con người,
quyền công dân và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện cuộc Cách
mạng Công nghiệp 4.0, Nhà nước ta đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến
độ xây dựng “Chính phủ điện tử”; Cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà
nước, nhằm cung cấp dịch vụ công trực tuyến để cán bộ, cơ quan, tổ chức đối
thoại trực tiếp với nhân dân, nâng cao hiệu quả tiếp nhận phản ánh, kiến nghị
của người dân, doanh nghiệp… Tuy nhiên, Luật An ninh mạng vẫn xác định nguyên
tắc pháp quyền của Nhà nước ta, đồng thời tôn trọng và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Bên cạnh đó, Việt Nam có những đóng góp tích cực
trong việc thành lập Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền, Ủy ban ASEAN về
bảo vệ và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em, thông qua tuyên bố Nhân
quyền ASEAN, là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014
- 2016). Đặc biệt, ngày 7-6-2019, tại trụ sở Liên hợp quốc, Đại hội đồng Liên
hợp quốc bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ
2020 - 2021) với số phiếu ủng hộ cao kỷ lục 192/193 phiếu. Mới đây, Việt Nam đã
hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong tháng 1 và
tháng 4 - 2021 với nhiều dấu ấn, đóng góp.
Những thành tựu đó được cộng đồng quốc
tế ghi nhận, đánh giá cao; thể hiện uy tín, vị thế quốc tế ngày càng
tăng của Việt Nam, bất chấp những luận điệu phủ nhận, xuyên tạc, chống phá
của các thế lực thù địch. Nỗ lực đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc trong nhiều thập niên của Việt Nam không nằm ngoài mục đích bảo đảm cho
mọi người dân Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ nhất quyền con người, trong đó có quyền được sống trong hòa bình, độc
lập, tự do và quyền được quyết định vận mệnh, con đường phát triển của mình “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng:
Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay”[3].
MÔN VĂN
[1] Hồ Chí Minh
toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.2011, t.9, tr.518
[2] Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb Hồng Đức, HN.2014
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2021, t. 1, tr.25