Theo KCTĐ - Cách đây tròn 79 năm, Cách mạng
Tháng 1945 đã thành công, đây là một cuộc cách mạng có ý nghĩa to lớn đối với
cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Với Việt Nam, Cách mạng
Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để có được sự thành công của
Cách mạng Tháng Tám, ngoài những yếu tố khách quan và chủ quan, phải đề cập đến
vai trò lãnh đạo tài tình của Hồ Chí Minh. Có thể nói, trong Cách mạng Tháng
Tám, Hồ Chí Minh đã tỏa sáng với đức độ, tài năng, mưu lược với sự chuẩn bị về
tư tưởng, chính trị, lực lượng... suốt thời gian dài.
Ngay
từ hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (03/02/1930), trong cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã xác định chủ trương của
những người cộng sản Việt Nam là tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản; nhiệm vụ của cách mạng được chỉ rõ là
đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập
(đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu). Tuy sau đó, những quan điểm của
Người đã không được Quốc tế Cộng sản chấp thuận (vì không nắm được tình hình
thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Đông Dương) và yêu cầu hủy bỏ toàn bộ các văn
kiện mà Hồ Chí Minh đã thông qua tại hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản và
thay bằng Luận cương chính trị tháng 10/1930 (do Trần Phú soạn thảo). Đến Đại
hội VII Quốc tế cộng sản (1935), những quan điểm trên của Người đã được nhìn
nhận và đánh giá sự đúng đắn của nó. Khi tình hình thế giới có nhiều chuyển
biến phức tạp, chiến tranh thế giới thứ II chuẩn bị bùng nổ, Hồ Chí Minh đã đề
nghị Quốc tế Cộng sản (QTCS) cho phép Người về nước để trực tiếp lãnh đạo cách
mạng (1939).
Ngày
28/01/1941, vượt qua cột mốc biên giới 108, Người cùng các đồng chí về đến xã
Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Cuối tháng 4/1941, theo đề nghị của
Người, một cuộc hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng được triệu tập để tổng kết kinh
nghiệm tổ chức thí điểm các hội quần chúng như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu
quốc nhằm tiến tới thành lập Mặt trận Việt Minh trong toàn quốc (chuẩn bị lực
lượng chính trị). Tháng 5/1941, lấy danh nghĩa đại diện QTCS, Người đã triệu
tập và chủ trì hội nghị lần thứ tám của TW Đảng CS Đông Dương (từ ngày
10-19/5/1941) với sự tham gia của các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ,
Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên cùng một số đại biểu của xứ ủy Bắc kỳ, Trung kỳ
và đại biểu hoạt động ở ngoài nước. Từ việc phân tích kỹ tình hình trong nước
và quốc tế, Hội nghị quyết định "cần phải thay đổi chiến lược",
xác định rõ kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là phát xít Pháp - Nhật và các
lược lượng phản cách mạng tay sai cho chúng. Từ đó, hội nghị đã xác định đặt
vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị chỉ rõ "cách mạng Đông
Dương trong giai đoạn hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng".
Sự hoàn chỉnh về mặt chiến lược cách mạng này cũng là sự tiếp nối của nghị
quyết hội nghị TW6, TW7 trước đó.
Nhằm
tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ cách mạng, ngày 19/5/1941, Mặt
trận Việt Minh chính thức ra đời với Tuyên ngôn và Chương
trình cụ thể. Bên cạnh đó, Người đã chỉ đạo Đảng ta tích cực xây dựng,
phát triển căn cứ địa cách mạng và xuất bản báo Việt Nam độc lập để
tuyên truyền, tổ chức nhân dân vào các hội cứu quốc của Việt Minh. Từ giữa
tháng 6 đến tháng 11/1941, Người đã mở những lớp huấn luyện ngắn ngày cho cán
bộ địa phương, lớp huấn luyện quân sự, quyết định tổ chức một đội vũ trang...
Cùng thời kỳ này, Người đã biên soạn một số tài liệu như Cách đánh du
kích (tác phẩm đầu tiên về quân sự), Lịch sử nước ta (gồm
236 câu lục bát, giáo dục về lịch sử của dân tộc, kêu gọi nhân dân đấu tranh và
rút ra một kết luận có tính nguyên tắc: đoàn kết. Tác giả cũng tiên đoán Việt
Nam độc lập vào năm 1945). Người cũng xác định để tiến hành cách mạng thành
công, phải tiến hành khởi nghĩa vũ trang, sử dụng lực lượng chính trị kết hợp
với lực lượng vũ trang. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh
Cao Bằng, gồm 34 đội viên do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Thực hiện lời căn
dặn của Người "trận đầu phải thắng", Đội đã lập 2 chiến công oanh
liệt: hạ đồn Phai Khắt (25/12/1944) và đồn Nà Ngần (26/12/1944), mở đầu truyền
thống anh hùng của quân đội ta.
Ngày
09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, tạo điều kiện khách quan để Đảng ta phát động
một cao trào kháng Nhật cứu nước và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi
nghĩa khi điều kiện cho phép. Ngày 12/3/1945, BTV TW Đảng ra Chỉ thị Nhật
- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta; ngày 15/3/1945, Tổng bộ
Việt Minh phát Hịch kháng Nhật cứu nước. Để có thể kịp thời
chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước, đầu tháng 5/1945, Hồ Chí Minh quyết
định chuyển đại bản doanh từ Cao Bằng về Tuyên Quang và thành lập Khu giải
phóng, căn cứ địa vững chắc về mọi mặt để làm bàn đạp tiến lên giải phóng toàn
quốc. Ngày 06/8/1945, được tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hirosima, Người yêu
cầu mau tổ chức Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào. Tiếp theo đó, ngày 16
và 17/8/1945, Quốc dân Đại hội đại biểu đã họp tại Tân Trào dưới sự chủ trì của
Hồ Chí Minh (hơn 60 đại biểu tham dự), Đại hội cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng
Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch với một Ủy ban thường trực gồm 5 người -
tức Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tạo cơ sở pháp lý
cho sự ra đời một chính phủ hợp pháp do nhân dân cử ra . Ngay sau Đại hội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Người kêu gọi
"Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đẫ đến. Toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta...Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến
lên! Tiến lên!"
Ngày
26/8/1945, Người mở phiên họp đầu tiên với Ban Thường vụ TW Đảng để thảo
luận các vấn đề quan trọng, đặc biệt là việc công bố danh sách thành viên Chính
phủ lâm thời và soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Người yêu cầu
việc tổ chức mittinh lớn tại Hà Nội, ra mắt Chính phủ, tuyên bố Việt Nam độc
lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa phải được gấp rút làm ngay, trước
khi quân Đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật. Bản Tuyên ngôn độc lập
đã khẳng định "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự
đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy".
Như
vậy, có thể khẳng định rằng vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam nói chung, với Cách mạng Tháng Tám nói riêng rất quan trọng. Từ việc
Người xác định rõ đường lối cách mạng, kẻ thù cách mạng, nhiệm vụ cách mạng đến
việc xây dựng căn cứ địa, xây dựng lực lượng (chính trị, vũ trang). Đặc biệt,
việc đánh giá đúng tình hình trong nước, quốc tế; phân tích rõ tình hình
địch-ta để chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc với
phương châm lấy sức ta mà giải phóng cho ta là một chủ trương rất đúng đắn,
sáng tạo. Việc xây dựng tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, được tập hợp trong Mặt
trận Việt Minh cũng là một bài học lớn về công tác dân vận của Đảng trong mọi
giai đoạn cách mạng. Thế giới đã đánh giá về Hồ Chí Minh là người đã làm thay
đổi bản đồ chính trị thể giới trong Thế kỷ XX với những đóng góp của Người cho
cách mạng Việt Nam và thế giới.
HOÀNG
THỌ